Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Nội dung chính
- 1 Khái niệm và đặc trưng của ngân hàng thương mại
- 2 Nghiệp vụ ngân hàng thương mại
- 3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
- 4 Chính sách thuế đối với ngân hàng thương mại là gì?
- 5 Hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại
- 6 Bài học kinh nghiệm về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại NHTM
- 7 Các loại rủi ro cơ bản của Ngân hàng thương mại
- 8 Kinh nghiệm quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại
- 9 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB)
- 10 Các nghiên cứu trước về đo lường chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng
Khái niệm và đặc trưng của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thương mại, được biết đến với chức năng kinh doanh tiền tệ. Hơn bất cứ tổ chức tài chính nào khác, NHTM luôn được coi là bách hoá tài chính, cung ứng rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ về tài chính. “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụtài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [42] để xây dựng khái niệm NHTM, có thể dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, hoặc kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo luật pháp nước Mỹ: “bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi 1 Ngân hàng Trung ương Thuỵ điển – Bank of Sweden thành lập vào năm 1669 được coi là NH trung ương đầu tiên trên thế giới, tiếp đến là Ngân hàng Trung ương Anh – Bank of England, 1694, NH Trung ương Mỹ – US Federal Reserve, 1912. cho phép KH rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một NH”. [42]
Theo Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì được coi là Ngân hàng” [19].
Luật Ngân hàng của Ấn độ ban hành năm 1950, bổ sung năm 1959 đã quy định: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư” [19].
Khái niệm Ngân hàng thương mại của Luật Ngân hàng (đan Mạch, 1930) căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động: “Những Ngân hàng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, bảo hiểm,…” [19].
Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.”.
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.” [56].
Như vậy, với tư cách là trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và cung ứng nhiều dịch vụ tài chính, khái niệm Ngân hàng thương mại có thể được xây dựng từ nhiều bình diện khác nhau. Cùng với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới, quy định pháp luật của từng quốc gia lại có thể mở rộng tối đa hoặc hạn chế hoạt động của Ngân hàng thương mại trong một số lĩnh vực nhất định.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án này, khái niệm về Ngân hàng thương mại được xây dựng theo cách tiếp cận truyền thống qua chức năng và các hoạt động cơ bản của nó.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại được biểu hiện qua chênh lệch tỷ giá hối đoái; chênh lệch lãi suất; chuyển đổi kỳ hạn nguồn vốn – tài sản; chuyển đổi rủi ro nguồn vốn – tài sản; và tích tụ và tập trung tư bản.
2. Đặc trưng của ngân hàng thương mại
* Về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp có quy mô lớn, hệ số nợ rất cao và cấu trúc tài sản đặc biệt
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các Ngân hàng thương mại là hàng nghìn tỷ đồng. đối với các Ngân hàng thương mại trên thế giới, vốn chủ sở hữu lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô về vốn chủ sở hữu đã rất lớn, nguồn vốn của Ngân hàng thương mại lại chủ yếu là nợ được huy động từ bên ngoài Ngân hàng. Cấu trúc tài sản của Ngân hàng thương mại đặc biệt hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác là ở tỷ trọng tài sản tài chính. Phần lớn tài sản của Ngân hàng thương mại là tài sản tài chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết bị nhất định. Bên cạnh đó, Ngân hàng thương mại thường có xu hướng liên tục phát triển các sản phẩm, công cụ tài chính mới.
* Hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của Ngân hàng thương mại lại là tiền gửi với đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó xác định. Sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng không được hưởng quy chế bảo hộ độc quyền và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa, Ngân hàng thương mại tham gia vào nhiều cam kết trong khi chưa chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú và đa dạng. điểm này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì những lý do này, hoạt động của Ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan. Rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm các loại rủi ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức,…
Là doanh nghiệp có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu nhiều rủi ro, ảnh hưởng đáng kể đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội, Ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống phát luật. Các quy định pháp lý đối với Ngân hàng thương mại được phổ rộng trên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như: điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng vốn tự có đầu tư cho tài sản cố định,…
* Tính liên kết và ổn định của hệ thống Ngân hàng
Hệ thống Ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ ngành kinh doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có tính lan toả rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một ngân hàng thương mại, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy, thanh khoản được ví như hơi thở của sự sống của hoạt động ngân hàng thương mại. Mọi rủi ro, tổn thất trong hoạt động của ngân hàng thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối cùng là Ngân hàng mất khả năng thanh toán rồi phá sản.
Hệ thống Ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi biến động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị và xã hội. Những biến động này thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ thống Ngân hàng. đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các phần tử trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại phát triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng Thương mại trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế.
Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
Căn cứ vào mục đích:
– Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai.
– Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
– Cho vay nông nghiệp.
– Thuê mua và các loại khác.
Căn cứ vào thời hạn cho vay.
– Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các doanh nghiệp.
– Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt năm thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dụng các dự án mới có quy mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
– Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
– Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân khách hàng.
– Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
– Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,…
– Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua.
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
– Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
– Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
Nghiệp vụ đầu tư:
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập khẩu,…
Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
– Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
– Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ khách hàng nhờ thu hộ…
– Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá… để hưởng hoa hồng.
– Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu nhập dưới hình thức hoà hồng phát hành. Ngân hàng có thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với tư cách là một trung gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi
Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán)
- Khái niệm: là loại tiền gửi mà người gửi tiền được sử dụng khoản tiền gửi đó vào bất cứ thời điểm nào để phục vụ cho nhu cầu thanh toán.
- Đối tượng: doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân.
- Tiện ích đối với khách hàng
- Gửi và rút tiền bất kỳ lúc nào
- Thanh toán, chuyển khoản
- Sử dụng thẻ thanh toán
- Sử dụng nghiệp vụ thấu chi
- Thu nợ và lãi vay, ký quỹ, bảo lãnh thanh toán, xác nhận khả năng tài chính
- Tiện ích đối với ngân hàng
- NH trả lãi thấp thậm chí ngân hàng không trả lãi, chi phí thấp, nâng cao khả năng cạnh tranh
- Số dư không lớn nhưng số lượng rất nhiều làm cho tổng vốn huy động qua tiền gửi thanh toán tăng đáng kể
- Tuy nhiên, Ngân hàng khó kế hoạch hóa việc sử dụng.
Tiền gửi có kỳ hạn
- Khái niệm: là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ gửi vào ngân hàng trong một khoảng thời gian xác định.
- Mỗi lần gửi tiền khách hàng phải ký một hợp đồng tiền gửi và thỏa thuận cụ thể thời điểm rút tiền.
- Khi có nhu cầu rút tiền, khách hàng có thể rút một phần hoặc toàn bộ vốn gốc (tùy vào điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn).
- Tái lập kỳ hạn mới tùy thuộc vào thỏa thuận trong hợp đồng.
- Tiện ích: sinh lời, an toàn, cầm cố, chứng minh năng lực tài chính
- Đối tượng: doanh nghiệp và cá nhân
Tiền gửi tiết kiệm
- Khái niệm: là khoản tiền gửi của tầng lớp dân cư vào tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng, nhằm mục đích tích lũy, sinh lời và an toàn tài sản.
Các sản phẩm tiết kiệm:
* TK không kỳ hạn
- TK không kỳ hạn bằng VND
- TK không kỳ hạn bằng ngoại tệ
* TK có kỳ hạn
- Căn cứ vào loại tiền: VND, ngoại tệ, vàng
- Căn cứ vào kỳ hạn: 1 tuần, 3 tháng, 36 tháng, …
- Căn cứ vào phương thức trả lãi: đầu kỳ, cuối kỳ, định kỳ
* Các loại TK khác
- TK tích lũy
- TK dự thưởng
- TK nhân văn
- TK bậc thang
Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Khái niệm: Giấy tờ có giá là chứng nhận của NHTM phát hành để huy động vốn, trong đó xác định nghĩa vụ trả một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa NHTM và người mua.
Nội dung của giấy tờ có giá:
- Mệnh giá: Là số tiền được ghi cả bằng chữ và số trên GTCG. Thể hiện số vốn gốc mà NH huy động của người sở hữu GTCG
- Thời hạn Là thời gian lưu hành của GTCG, được xác định từ ngày phát hành đến ngày đáo hạn của GTCG
- Lãi suất: Là lãi suất áp dụng để tính lãi cho người thụ hưởng GTCG
– Tiện ích:
- Đối với khách hàng: có nhiều hình thức khác nhau để thu hút
- Đối với ngân hàng: có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng
Huy động vốn bằng hình thức vay từ các TCTD khác và vay từ NHNN
- Huy động vốn của TCTD khác thông qua việc TCTD mở tài khoản tại NHTM để tham gia hệ thống thanh toán
- NHTM có thể huy động vốn từ NHNN dưới hình thức đi vay
Chính sách thuế đối với ngân hàng thương mại là gì?
Thuế doanh thu
Theo quy định tại luật thuế doanh thu ngày 30-6-1990 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu ngày 5-7-1993 thì ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải nộp thuế doanh thu cho toàn bộ doanh thu phát sinh từ các hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam .
Doanh thu chịu thuế:
Doanh thu chịu thuế được quy định như sau:
– Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng: là khoản chênh lệch giữa thu lãi tiền cho vay, thu lãi tiền gửi của ngân hàng với trả lãi tiền đi vay, trả lãi tiền gửi của khách hàng.
– Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ: mua bán chứng khoán có giá do cơ quan Nhà nước và tổ chức kinh tế Việt Nam phát hành, mua bán vàng, bạc, đá quí; là chênh lệch giữa giá mua và giá bán ngoại tệ, vàng, bạc, đá quí và chứng khoán có giá nêu trên.
– Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ nghiệp vụ thuộc lĩnh vực ngân hàng như thanh toán hộ, chuyển tiền, bảo lãnh: là số tiền thu được hoặc hoa hồng được hưởng từ việc cung cấp các dịch vụ này.
– Đối với các hoạt động kinh doanh khác như cho thuê, nhượng bán tài sản… là toàn bộ số tiền thu được từ các hoạt động này.
- b) Thuế suất thuế doanh thu:
Thuế suất thuế doanh thu được quy định như sau:
– Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng thuế suất là 15% doanh thu chịu thuế.
– Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, mua bán chứng khoán có giá thuế suất là 25% doanh thu chịu thuế.
– Đối với hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quí thuế suất là 15% doanh thu chịu thuế.
– Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ nghiệp vụ thuộc lĩnh vực ngân hàng, thuế suất là 6% doanh thu chịu thuế.
– Đối với các hoạt động kinh doanh khác, thuế suất thuế doanh thu được áp dụng theo biểu thuế doanh thu ban hành tại Nghị định số 55-CP ngày 28-8-1993 của Chính phủ phù hợp với nội dung, tính chất của từng hoạt động kinh doanh.
Thuế lợi tức
Theo quy định tại Nghị định số 16-4-1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì ngân hàng nước ngoài phải nộp thuế lợi tức đối với toàn bộ lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh, từ các quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản trong và ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam .
- a) Lợi tức chịu thuế
Lợi tức chịu thuế được xác định bằng chênh lệch giữa doanh thu để tính thuế lợi tức với các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ, cộng với các khoản thuế lợi tức khác.
Doanh thu để tính thuế lợi tức bao gồm các khoản thu từ hoạt động tín dụng ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán có giá do Nhà nước và tổ chức kinh tế Việt Nam phát hành, bán vàng, bạc, đá quí, các hoạt động cung cấp dịch vụ nghiệp vụ thuộc lĩnh vực ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác chưa trừ một khoản chi phí nào của ngân hàng nước ngoài trong năm tính thuế.
Các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm:
– Chi phí về nguyên liệu, năng lượng phục vụ cho các hoạt động của ngân hàng.
– Tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp trả cho người lao động Việt Nam và nước ngoài trên cơ sở hợp đồng lao động phù hợp với quy chế lao động đối với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ban hành tại Nghị định số 233-HĐBT ngày 22-6-1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
– Khấu hao tài sản cố định. Việc trích khấu hao tài sản cố định phải phù hợp với quy định tại Thông tư số 31-TC/TCĐN ngày 18-7-1993. Trường hợp ngân hàng muốn trích khấu hao cao hơn mức quy định tại Thông tư này phải được sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ Tài chính.
– Chi phí mua hoặc bán hoặc trả tiền do việc sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, công nghệ và dịch vụ kỹ thuật…
– Chi phí quảng cáo.
– Các khoản thuế, phí và lệ phí (không kể thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các loại thuế thu trên thu nhập).
– Tiền nộp bảo hiểm cho người lao động thuộc nghĩa vụ của ngân hàng nước ngoài theo quy định tại điều 46 của Nghị định số 233-HĐBT ngày 22-6-1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
– Các khoản tiền thu bảo hiểm tài sản của Ngân hàng nước ngoài theo chế độ thống nhất của Nhà nước Việt Nam.
– Lãi suất, chiết khấu hợp lý trả cho các khoản tiền gửi, vốn đi vay hoặc các công cụ tài chính khác.
– Chi phí quản lý bao gồm chi phí hành chính, chi phí bảo quản kho tàng nhà cửa, chi phí bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ, an ninh.
– Các khoản chi phí khác chưa được kể đến ở trên, nhưng không vượt quá 5% tổng chi phí nêu trên.
– Lỗ của các năm trước chuyển sang. Thời hạn chuyển các khoản lỗ không quá 5 năm tài chính tiếp theo kể từ năm tài chính phát sinh lỗ.
Các chi phí dưới đây không được loại trừ khi xác định lợi tức chịu thuế.
– Chi phí về vật tư, năng lượng, tiền công… sử dụng cho các mục đích không liên quan đến việc hình thành lợi tức chịu thuế.
– Thiệt hại ngừng hoạt động kinh doanh do mọi nguyên nhân.
– Các khoản thiệt hại đã được cơ quan bảo hiểm giải quyết.
– Các khoản lãi tiền vay phải trả cho phần vốn đi vay để góp vốn điều lệ (hay hình thành vốn được cấp) hoặc do việc huy động vốn tiền gửi vượt quá định mức quy định; các khoản lãi trả cho tiền vay tiền vốn huy động mà do việc thực hiện chế độ lãi suất trái với chế độ quy định.
Các khoản lợi tức khác bao gồm lợi tức các phát sinh từ các hoạt động chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn, thanh lý tài sản, lợi tức được phân bổ từ ngân hàng nguyên xứ đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài (lợi tức thu được từ chi nhánh ở nước ngoài đối với ngân hàng liên doanh).
- b) Thuế suất thuế lợi tức
Ngân hàng nước ngoài nộp thuế lợi tức với mức thuế suất là 25% lợi tức chịu thuế.
Trường hợp tại giấy phép kinh doanh có điều khoản quy định mức thuế suất thuế lợi tức thì áp dụng theo mức thuế suất quy định tại giấy phép kinh doanh.
- c) Thu thuế lợi tức đối với thuế lợi tức của chi nhánh tại nước ngoài của ngân hàng liên doanh.
Trường hợp giữa Việt Nam và nước đặt chi nhánh của ngân hàng liên doanh đã ký Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần hoặc các Hiệp định có điều khoản liên quan về thuế thì việc thu thuế đối với phần lợi tức của chi nhánh nước ngoài của Ngân hàng liên doanh được áp dụng theo quy định tại các Hiệp định này.
Trong các trường hợp khác, nếu chi nhánh tại nước ngoài của ngân hàng liên doanh phải nộp thuế lợi tức tại nước nơi đặt chi nhánh thì số lợi tức chịu thuế của Ngân hàng liên doanh. Nhưng mức được giảm trừ không vượt quá 15% lợi tức chịu thuế của chi nhánh được xác định phù hợp với quy định tại Điều 2a Thông tư này.
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
Ngân hàng nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nộp thuế chuyển lợi nhuận theo mức thuế quy định tại điều 70 Nghi định 18-CP ngày 16-4-1993 của Chính phủ.
Trường hợp tại giấy phép kinh doanh có điều khoản quy định mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước thì áp dụng theo mức thuế suất quy định tại giấy phép kinh doanh.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Ngân hàng nước ngoài được miễm thuế nhập khẩu đối với các loại hàng hoá nhập khẩu thuộc vốn đầu tư theo tiêu chuẩn, định lượng quy định tại văn bản số 102-CN-NH5 ngày 10-3-1993 của ngân hàng Nhà nước. Khi nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc diện được miễn thuế nêu trên, ngân hàng nước ngoài phải làm thủ tục miễn thuế tại Bộ Tài chính theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế xuất khẩu hiện hành.
Tiền thuê mặt đất
Ngân hàng nước ngoài thuê trụ sở, văn phòng của các tổ chức và cá nhân Việt Nam hoặc được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất làm trụ sở, văn phòng phải nộp tiền thuê đất theo quy định tại Quyết định số 210a-TC-VP ngày 1-4-1990 và Thông tư số 50-TC/TCĐN ngày 3-7-1993 của Bộ Tài chính.
Trường hợp ngân hàng nước ngoài thuê trụ sở, văn phòng theo phương thức trọn gói nghĩa là phải trả cả tiền thuê nhà và tiền thuê đất thì tổ chức cá nhân Việt Nam cho thuê sẽ có trách nhiệm thu tiền thuê đất mà người đi thuê phải nộp để nộp ngân sách Nhà nước.
Mức tiền thuê đất cụ thể đối với từng ngân hàng do Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở ý kiến đề nghị của ngân hàng nước ngoài, ý kiến của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố nơi thuê đất. Mức tiền thuê đất cụ thể đối với từng ngân hàng do Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở ý kiến đề nghị của ngân hàng nước ngoài, ý kiến của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố nơi thuê đất.
Trong khi chưa có quyết định về mức tiền thuê đất của Bộ Tài chính, cơ quan thuế trực tiếp thu thuế thu tiền thuê đất theo một mức tạm tính căn cứ vào các hướng dẫn tại Thông tư 50-TC-TCĐN ngày 3-7-1993 của Bộ Tài chính, sẽ điều chỉnh số thu theo quy định tại quyết định này, thu thêm (hoặc hoàn trả) số còn nộp thiếu (hoặc nộp thừa).
Các loại thuế và thu khác chưa nêu tại văn bản này được thi hành theo Luật pháp hiện hành và hướng dẫn tại Thông tư số 51-TC-TCT ngày 31-6-1993 của Bộ Tài chính.
Đăng ký thuế
Trong thời hạn một tháng sau khi được cấp giấy phép hoạt động, các ngân hàng nước ngoài phải làm thủ tục đăng ký thuế với Cục thuế địa phương nơi ngân hàng đặt trụ sở (kể cả nơi ngân hàng đặt chi nhánh hoặc chi nhánh phụ thuộc). Trong quá trình hoạt động, ngân hàng nước ngoài phải chịu sự kiểm tra, quản lý về thuế của cơ quan thuế nơi đăng ký thuế và Bộ Tài chính.
Thông tư này thay thế cho Thông tư số 7-TC-TCT ngày 19-1-1993 của Bộ Tài chính và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-9-1993
Hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại
Hiệu quả nói chung là phép so sánh dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, hiệu quả hoạt động được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau. Theo Antonio, Ludger và Vito (2006) thì “Hiệu quả là phép so sánh giữa đầu vào và đầu ra hay giữa lợi nhuận và chi phí. Với cùng đầu vào cho trước, hoạt động nào tạo ra đầu ra lớn hơn sẽ là hoạt động hiệu quả hơn”. Trong khi đó, theo Từ điển Toán kinh tế, Thống kê, kinh tế lượng Anh – Việt (PGS.TS Nguyễn Khắc Minh, 2004), hiệu quả là “mức độ thành công mà các doanh nghiệp hoặc các ngân hàng đạt được trong việc phân bổ các đầu vào có thể sử dụng và các đầu ra mà họ sản xuất, đáp ứng mục tiêu đã định trước”.
Như vậy, có thể hiểu hiệu quả hoạt động của NHTM có thể được hiểu theo ba hướng: (1) tối thiểu hóa chi phí, tức là sử dụng ít các yếu tố đầu vào nhất như vốn, cơ sở vật chất, lao động…để tạo ra thu nhập, (2) giữ nguyên đầu vào nhưng tạo ra lượng đầu ra nhiều hơn, (3) sử dụng nhiều yếu tố đầu vào hơn nhưng lượng đầu ra được tạo ra tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng đầu vào. Hệ thống NHTM đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, do đó hiệu quả hoạt động ngân hàng là một trong những vấn đề luôn được quan tâm. Các ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm củng cố tiềm lực tài chính và an toàn hoạt động trong nền kinh tế mở hiện nay.
Bài học kinh nghiệm về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại NHTM
1. Gắn quản trị rủi ro tín dụng với quản trị rủi ro hoạt động
Thứ nhất, áp dụng triệt để 4 vấn đề chính với mười nguyên tắc vàng về quản trị rủi ro hoạt động theo ủy ban Basel. Để thực hiện 10 nguyên tắc này, cả NHTM và NHNN đều phải vào cuộc. NHNN cần đảm bảo nguyên tắc 8-9 và giám sát nguyên tắc 10.
Thứ hai, xây dựng ý thức về quản trị rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống, lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm soát về rủi ro hoạt động.
Thứ ba, xây dựng ngân hàng dữ liệu về rủi ro hoạt động và sử dụng công nghệ hiện đại trong phân tích và xử lý rủi ro hoạt động.
Thứ tư, hạn chế tối đa nguyên nhân gây ra rủi ro hoạt động từ các yếu tố bên trong NHTM như con người, quy trình, hệ thống.
Thứ năm, hạn chế tối đa các nguyên nhân rủi ro hoạt động bên ngoài, xây dựng các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả.
2. Thực hiện đồng bộ các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro lãi suất
-
Về quản trị rủi ro tín dụng
Thứ nhất, xây dựng quy trình tín dụng quy định rõ trách nhiệm các khâu nghiệp vụ, tách biệt giữa bộ phận tiếp nhận hồ sơ khách hàng, bộ phận thẩm định cho vay và thu nợ, tránh chồng chéo giữa các bộ phận, gây mất thời gian cho khách hàng.
Thứ hai, xây dựng hệ thống các tiêu chí để chấm điểm khách hàng. Việc chấm điểm khách hàng có thể dựa trên mô hình phù hợp. Sau khi có kết quả chấm điểm khách hàng, ngân hàng cần đưa ra những chính sách đối xử với từng khách hàng.
Thứ ba, sử dụng những biện pháp hỗ trợ như thiết lập quỹ dự phòng rủi ro, mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay, phân chia giới hạn rủi ro… giúp hạn chế được rủi ro đáng kể trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thứ tư, tăng cường công tác thu thập, lưu trữ thông tin và giám sát khoản vay. Công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay được tăng cường giúp thu thập thêm thông tin để đánh giá, xếp hạng khách hàng hoặc khoản vay, từ đó có thể giúp các NH quản lý rủi ro một cách toàn diện hơn.
Thứ năm, cần thành lập tại mỗi TCTD một bộ phận quản trị rủi ro tín dụng có đủ trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp để có thể quản trị được hoạt động tín dụng một cách có hiệu quả. Bộ phận đó phải độc lập với bộ phận tín dụng tại mỗi TCTD.
-
Về quản trị rủi ro lãi suất
Một là, việc theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính với sự nới lỏng, tiến đến xóa bỏ sự kiểm soát lãi suất sẽ dẫn đến xu thế biến động nhiều hơn của lãi suất thị trường, do vậy, các NHTM phải có nhận thức và sự chuẩn bị đầy đủ cho công tác nhận biết, phòng ngừa RRLS nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống.
Hai là, xây dựng chính sách quản lý RRLS bằng văn bản và quy định thống nhất trong toàn NH. Chính sách này sẽ giúp các cấp quản lý cũng như nhân viên NH hiểu rõ quy trình, nội dung quản lý rủi ro và trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân trong công tác quản lý rủi ro lãi suất, từ đó giúp cho việc điều chỉnh phòng ngừa rủi ro có hiệu quả.
Ba là, khi xây dựng mô hình quản trị rủi ro lãi suất, việc quy định chức năng nhiệm vụ của các bộ phận cần phải rõ ràng, tránh chồng chéo. Đặc biệt, các bộ phận đo lường, phân tích và kiểm soát rủi ro phải độc lập với các bộ phận kinh doanh và báo cáo trực tiếp lên Uỷ Ban QLRR/Hội đồng ALCO.
Bốn là, chuẩn bị đầy đủ điều kiện về con người, công nghệ để thực hiện tốt việc đo lường, đánh giá mức độ thiệt hại nếu xảy ra khi lãi suất có chiều hướng biến đổi theo hướng bất lợi cho NH. Nghiên cứu phương pháp quản lý rủi ro lãi suất bằng phương pháp giá trị có thể tổn thất (Value at Risk), xác lập các hạn mức giá trị chịu rủi ro lãi suất để giới hạn mức tổn thất có thể xảy ra đối với giá trị kinh tế vốn của ngân hàng.
3. Xây dựng cơ cấu tổ chức và chiến lược quản trị rủi ro hoạt động có hiệu quả
Các NHTM phải có một khung quản trị rủi ro tác nghiệp hiệu quả để xác định, đánh giá, giám sát và kiểm soát/giảm thiểu rủi ro như là một phần của phương pháp tiếp cận tổng thể để quản trị rủi ro. Hoạt động thanh tra và giám sát phải thường xuyên, độc lập đánh giá chính sách, thủ tục và thực tiễn liên quan đến những RRHĐ của NHTM. Người giám sát phải đảm bảo rằng có những cơ chế thích hợp cho phép họ biết được sự phát triển của ngân hàng.
4. Chủ động và linh hoạt trong quản trị rủi ro thanh khoản
Các NHTM cần nhận định bất kỳ loại rủi ro nào trong NH cũng đều có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. NHTM cần đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản vì tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Các khoản cho vay cũng chiếm phần lớn trong danh mục tài sản của ngân hàng. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao như hiện nay, các NHTM cần đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa giữa rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.
Khi có những biến động trên thị trường tài chính tiền tệ, mỗi ngân hàng đều cần có sự chuẩn bị sẵn sàng ứng phó trong trường hợp biến động đó có thể ảnh hưởng tới hoạt động và uy tín của mình.
5. Tăng cường sự liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong quản trị rủi ro
Thứ nhất, có thể khai thác lợi thế cạnh tranh của nhau, cùng phát triển sản phẩm, dịch vụ, thu hút khách hàng, tiết giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động;
Thứ hai, có thể hỗ trợ lẫn nhau trong vấn đề thanh khoản khi thị trường có biến động bất lợi. Sự hợp tác giữa các NHTM không chỉ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế đất nước, mà còn vì chính lợi ích và sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các NHTM.. Các NHTM cần: xây dựng bộ phận quản lý thông tin và đối phó với các tin đồn,…
Sự cần thiết phải quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại
Đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo nó những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục. Chính vì thế, quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM được coi là hoạt động trọng tâm trong các tổ chức tài chính – NHTM, bởi kiểm soát và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Do đó, QTRR trong HĐKD là một nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM.
Theo quan điểm của luận án, Quản trị rủi ro Là việc xây dựng chiến lược, chính sách và quy trình các hoạt động kinh doanh dịch vụ; tổ chức, điều hành, triển khai và thực hiện chiến lược, chính sách và các quy trình liên quan đến các hoạt động kinh doanh dịch vụ nhằm đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân hàng có thể chấp nhận được.
Mục đích cuối cùng hay mục tiêu cao nhất của quản trị rủi ro đó là tối đa hóa lợi nhuận, đảm bảo phát triển bền vững của NHTM, đảm bảo sự cân bằng giữa rủi ro có thể chấp nhận được với lợi nhuận mang lại. Nếu NHTM quá chú trọng đến quản trị rủi ro, quá thận trọng trong hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác, dẫn tới thu hẹp hay không mở rộng được quy mô kinh doanh, mất thị phần trong cạnh tranh, NHTM không phát triển được. Ngược lại, nếu NHTM quá chú trọng đến lợi nhuận, đến phát triển kinh doanh mà coi nhẹ quản trị rủi ro, sẽ dẫn đến các khoản thất thoát, mất vốn ngày càng tăng, có thể dẫn NHTM đến nguy cơ thu lỗ kéo dài, thậm chí là phá sản. Mức chấp nhận được trong quản trị rủi ro của NHTM đối với lĩnh vực tín dụng theo thông lệ quốc tế đó là nợ xấu không vượt quá 5%,…
Các loại rủi ro cơ bản của Ngân hàng thương mại
Rủi ro rất đa dạng, có thể phân tích theo nhiều khía cạnh khác nhau, đồng thời các loại rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, rủi ro này có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khác. Trong phạm vi luận án này chỉ đề cập đến một số loại rủi ro cơ bản mà một NH hiện đại thường gặp phải và mối quan hệ giữa một số loại rủi ro với nhau.
1. Rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM, đem lại lợi nhuận lớn nhất nhưng cũng là loại rủi ro lớn nhất của NHTM. Rủi ro tín dụng được đề cập ở đây là rủi ro trong hoạt động cho vay, cấp tín dụng của NHTM. Theo quan niệm của Ủy ban Basel (2000) thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận”[62].Theo khái niệm này thì rủi ro tín dụng có phạm vi khá rộng, không chỉ trong quan hệ tín dụng giữa NH với khách hàng mà trong cả các hoạt động khác như đầu tư, phái sinh mà ngân hàng thực hiện.
Tại Điều 3, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN nêu rõ: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động NH (sau đây gọi tắt là rủi ro) là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết” [29].
Để thống nhất cách nhận thức và phân tích xuyên suốt trong toàn bộ nội dung luận án, nghiên cứu sinh đồng tình với khái niệm về rủi ro tín dụng được nêu trong văn bản pháp quy nói trên của NHNN. Khái niệm này đã được trao đổi, thảo luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách,…trong quá trình ban hành văn bản pháp quy này. Cụ thể như sau: Rủi ro tín dụng: là những khoản tổn thất phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
2. Rủi ro lãi suất
Là những thiệt hại mà NHTM phải gánh chịu khi có sự thay đổi lãi suất trên thị trường. Nếu ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản Có và tài sản Nợ với những kỳ hạn không cân xứng với nhau thì phải chịu những rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ tài sản Có hoặc khi giá trị của tài sản thay đổi do lãi suất thị trường biến động. Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn thể hiện khi tỷ lệ lạm phát tăng nhanh hơn lạm phát dự kiến trong khi lãi suất cho vay không thể điều chỉnh được, thì ngân hàng có thể phải chịu rủi ro nếu tỷ lệ lạm phát lớn hơn hoặc bằng lãi suất cho vay (lãi suất thực tế âm).
3. Rủi ro ngoại hối
Theo Peter S. Rose (2001) “Là những thiệt hại mà NHTM phải gánh chịu do sự biến động của giá cả tiền tệ trên thị trường thế giới” [41]. Rủi ro ngoại hối xảy ra do tài sản Có và tài sản Nợ bằng ngoại tệ không cân xứng với nhau cả về số lượng và kỳ hạn. Rủi ro ngoại hối có mối quan hệ với rủi ro tín dụng thể hiện như: Khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm một loại ngoại tệ nào đó và để chi trả cho bên bán, các DN phải mua ngoại tệ với giá cao ngoài dự tính, lợi nhuận kinh doanh giảm, có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay.
4. Rủi ro nguồn vốn
Cũng theo Peter S. Rose (2001): “Là những thiệt hại do nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng không cho vay được, cũng như không thể chuyển sang được các loại tài sản Có sinh lời khác” [41]. Ngân hàng không khai thác hết được tiềm năng sinh lời của tài sản Có, hiệu quả sử dụng vốn giảm, dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Nếu tình trạng này kéo dài mà không được khắc phục có thể ngân hàng sẽ phá sản.
5. Rủi ro thanh khoản:
“Là tình trạng NHTM không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả dụng (nhu cầu thanh khoản)” [41]. Tình trạng này nhỏ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán và dẫn đến ngân hàng phá sản.
Rủi ro thanh khoản cũng còn được hiểu “Là một rủi ro trong lĩnh vực tài chính. Rủi ro này xảy ra khi NHTM thiếu ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay” [41]. Thiếu ngân quỹ ở đây có thể được hiểu theo 2 cách: thiếu dự trữ tại ngân hàng, hoặc là không thể huy động được nguồn vốn ngay lập tức. Để tránh được rủi ro thanh khoản, các NHTM phải tính toán được hệ số thanh khoản của mình, tức là tính được khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán ngay của các tài sản Nợ.
6. Rủi ro hoạt động:
Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, “Rủi ro hoạt động là rủi ro gây ra tổn thất cho ngân hàng do nguyên nhân con người, sự không đầy đủ hay vận hành không tốt các quy trình, hệ thống, các sự kiện khách quan bên ngoài” [63]. Rủi ro hoạt động là loại rủi ro tổn thất tài sản xảy ra do hoạt động kém hiệu quả, ví dụ như hệ thống thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề, có vi phạm trong hệ thống kiểm soát nội bộ, có sự gian lận hay những thảm họa không lường trước được.
7. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Giữa các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và 5 loại rủi ro cơ bản được đề cập ở trên nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau, rủi ro này là nguyên nhân của rủi ro kia. Trong hoạt động tín dụng, để xẩy ra rủi ro với tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng thu hồi nợ thấp sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Khi NHTM để xẩy ra rủi ro thanh khoản, phải đi vay vốn trên thị trường, phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, lại gây ra rủi ro nguồn vốn và rủi ro lãi suất. Rủi ro trong hoạt động bởi nguyên nhân con người, sự không đầy đủ hay vận hành không tốt các quy trình, hệ thống, các sự kiện khách quan bên ngoài lại gây ro rủi ro tín dụng và rủi ro ngoại hối,…
Kinh nghiệm quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại

1. Kinh nghiệm về quản trị rủi ro tín dụng tại ANZ – Australia
Đo lường rủi ro ở ANZ: Phương pháp sử dụng hệ thống chuyên gia: Phương pháp sử dụng hệ thống chuyên gia là phương pháp đo lường rủi ro tín dụng truyền thống mà ANZ đã áp dụng phổ biến. Trong hệ thống này các cán bộ tín dụng có quyền tự đưa ra quyết định tín dụng đối với khách hàng dựa trên kinh nghiệm và các dữ liệu lịch sử về khách hàng.
Phương pháp tính mức bù rủi ro:ANZ đòi hỏi mức bù rủi ro là tỉ lệ lợi tức bắt buộc thêm vào để bồi thường rủi ro cao mà NH phải chịu khi cho vay. Các khoản cho vay có mức rủi ro cao sẽ có lãi suất hơn để bồi thường mức rủi ro cao. Ví dụ ở ANZ, có một khoảng cách giữa mức lãi suất mà ANZ áp dụng cho tổ chức và các khoản vay trả góp so với lãi suất tín phiếu kho bạc và có 1 khoảng cách giữa cho vay trả góp hạng nhất hạng hai mà ANZ đưa ra. Ví dụ như lợi tức của trái phiếu Úc năm 2007 tăng từ 6,1% lên 6,5%, lãi suất trả góp tiêu chuẩn ANZ áp dụng là từ 6,5% đến 7,9%, ANZ áp dụng các khoản cho vay thứ cấp lãi suất cao hơn các khoản cho vay thông thường.
Phương pháp đo lường tín dụng nội bộ: ANZ áp dụng xác suất không trả được nợ như là một tiêu chí chủ chốt để đánh giá độ tin cậy của người vay. Tiêu chuẩn này được thực hiện bởi quá trình xếp hạng tín dụng của ANZ thể hiện qua hệ thống xếp hạng nội bộ đối với khách hàng. Cơ sở dữ liệu này được hình thành dựa trên các số liệu về số liệu trong quá khứ của khách hàng bao gồm: các khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng 1 năm của khách hàng, ngân hàng căn cứ vào số liệu dư nợ trong vòng 5 năm trước đó.
Phương pháp RAROC: RAROC thực chất là một phương pháp định lượng, đo lường mức độ sinh lời có tính dẫn đến yếu tố rủi ro. RAROC không đồng nhất với quản trị rủi ro, thay vì thế RAROC là một phần, hay nói đúng hơn là một trong nhiều công cụ mà các ngân hàng hiện đại đang áp dụng trong quản trị rủi ro. Xuất phát từ thống kê xác xuất, nên quan niệm của RAROC về rủi ro khác với quan niệm thông thường. Chẳng hạn, theo quan niệm thông thường, rủi ro rín dụng là khả năng khách hàng không trả được nợ như cam kết, còn theo RAROC, rủi ro tín dụng là mức độ biến động của thu nhập ròng (lợi nhuận) gây ra bởi sự biến động về tổn thất trong tín dụng.
Ngân hàng ANZ áp dụng phương pháp RAROC và coi đây là phương pháp tính hiệu quả khoản vay. Theo ANZ, phương pháp RAROC đảm bảo rằng một khoản vay chỉ được thông qua khi khoản vay đem lại giá trị cho cổ đông. Nếu RAROC của khoản vay thấp hơn ROE thì khoản vay sẽ từ chối, tuy nhiên nếu hơn sẽ được thông qua. Dựa trên nguyên tắc này, tiêu chuẩn RAROC cho các khoản vay được chấp nhận của ANZ trong suốt 5 năm được tính qua Bảng 1.3 như sau:
Bảng 1.3: Tỷ lệ ROE và RAROC đi với các khoản vay của ANZ
Year 2002 | Year 2003 | Year 2004 | Year 2005 | Year 2006 | |
ROE | 21.60% | 20.60% | 17.80% | 15.50% | 18.02% |
RAROC | >21.60% | >20.60% | >17.80% | 15.50% | >18.02% |
Nguồn: ANZ consolidated annual report 2002 – 2006 [60]
Phương pháp VAR: Dựa vào thông tin của hệ thống đánh giá nội bộ của ANZ, dữ liệu lịch sử, lãi suất quá hạn của các khoản nợ không có khả năng thanh toán, cũng như là chênh lệch lợi nhuận, VAR của mỗi khoản vay đã được tính toán. Ví dụ như với độ tin cậy 97,5% đối với chênh lệch lãi suất các khoản tín dụng, VAR được tính là 0,8 triệu USD năm 2005 lên 1.1 triệu USD năm 2006. Tại độ tin cậy là 99%, con số tương ứng là 1,2 triệu USD lên 2,3 triệu USD năm 2006. …[60]
Một số đánh giá về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ANZ
Thứ nhất, đã áp dụng thành công các mô hình quản trị rủi ro tín dụng một cách linh hoạt và phù hợp.
ANZ đã thực hiện một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng bao gồm các phương thức quản lý rủi ro hiện đại và truyền thống. Quá trình sử dụng phương pháp hệ thống các chuyên gia, phương pháp tính mức bù rủi ro, hệ thống xếp hạng nội bộ, phương pháp RAROC và VAR được thiết lập linh hoạt phù hợp.
Thứ hai, áp dụng quản trị rủi ro tín dụng trên cả 2 khía cạnh rủi ro riêng biệt và rủi ro danh mục.
Thành công nổi bật của ANZ là việc quản trị cả rủi ro riêng biệt và rủi ro danh mục qua công cụ giới hạn tín dụng tập trung. Danh mục cho vay của ANZ được đa dạng hoá để giảm những rủi ro địa lý và rủi ro ngành cũng như để tối đa hoá lợi nhuận thông qua việc đưa ra giới hạn tập trung đối với từng nhóm khách hàng một cách chính xác.
2. Quản trị rủi ro tỷ giá
Kinh nghiệm về quản trị rủi ro tác nghiệp của các ngân hàng Singapore
Tại Singapore: Ngân hàng DBS (The Development Bank of Singapore Limited) các rủi ro tác nghiệp được phân tích trên hai giác độ: tần suất xuất hiện và mức độ tác động. Từ đó, DBS xác định cách thức tổ chức và xây dựng các chương trình giảm thiểu các mức rủi ro tác nghiệp như: kiểm soát nội bộ, bảo hiểm quốc tế. Tại DBS, các công cụ và kĩ thuật quản trị rủi ro tác nghiệp được sử dụng như kiểm soát tự đánh giá, quản lý sự kiện, phân tích rủi ro và báo cáo. …[8]
Kinh nghiệm về mô hình tổ chức nghiệp vụ của Malaysia và Trung Quốc
Các NHTM dần chuyên môn hóa, hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin theo hướng xử lý giao dịch tập trung của nhiều nước, chi nhánh về một trung tâm. Hiện nay, đây là cách làm của nhiều ngân hàng lớn trên thế giới có nhiều chi nhánh, lượng giao dịch lớn như Citibank có trung tâm xử lý tài chính thương mại ở Penang (Malaysia), Bank of New York có trung tâm xử lý ở Thượng Hải, American Express Bank có trung tâm tại Singapore…[8]
3. Quản trị rủi ro lãi suất của ngân hàng tại Trung Quốc
NHTW Trung Quốc (The People’s Bank of China) thực hiện những biện pháp cần thiết nhất để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn, giúp các NHTM có cơ sở dự báo biến động lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, để đa dạng hóa các công cụ phòng ngừa RRLS, NHTW Trung Quốc đã ban hành Thông tư về thí điểm giao dịch swap lãi suất, qua đó tổng kết, rút kinh nghiệm hoàn thiện quy chế và tiến tới triển khai trên diện rộng. Ngoài ra, Ủy ban giám sát hoạt động Ngân hàng Trung Quốc đưa ra những quy định chặt chẽ về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phù hợp với quy định trong hiệp định tiêu chuẩn về vốn của Ủy ban Basel, buộc các TCTD phải tuân thủ. Việc các NHTM Trung Quốc tuân thủ nghiêm túc tỷ lệ an toàn vốn sẽ hạn chế được tình trạng các NHTM cạnh tranh không lành mạnh bằng cách tăng lãi suất huy động để tăng quy mô vốn huy động, do vậy sẽ giảm bớt được sự biến động của lãi suất thị trường. [8]
4. Quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động ngân hàng một số nước trên thế giới
- i) Bài học về quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng Northern Rock – nước Anh năm 2007 [77]
Tháng 9/2007, cả nước Anh và toàn thế giới choáng váng với sự kiện NH Northern Rock đứng bên bờ vực phá sản. Ngày 12/9/2007, Northern Rock đã đề nghị NHTW Anh (Bank of England) cho vay 3 tỉ bảng Anh vốn ngắn hạn để chi trả các nghĩa vụ tài chính đến hạn của mình. Cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn (subprime mortgage crisis) trên thị trường Mỹ mùa hè năm 2007 có ảnh hưởng đến cung thanh khoản của Northern Rock do NH này có 150 triệu đô la Mỹ trong các khoản cho vay thế chấp bằng bất động sản trên thị trường Mỹ (với đối tác là ngân hàng Lehman Brothers – một “ông lớn”trong lĩnh vực cho vay mua bất động sản tại Mĩ, cũng đã bị phá sản vào ngày 15/9/2008). Lý do khiến Northern Rock phải vay vốn của NHTW Anh là do Northern Rock không huy động được vốn trên thị trường liên NH và các TCTD khác. Sau đó Northern Rock đã liên lạc với các cơ quan tài chính của chính phủ cũng như NH Anh để được trợ giúp giải quyết các vấn đề đang gặp phải. Những thông tin bí mật về các cuộc trao đổi giữa Northern Rock và ngân hàng TW Anh cũng như các tổ chức tài chính khác bị giới truyền thông biết được. Báo chí dồn dập đưa ra những dự đoán về nguy cơ vỡ nợ với những cái tít giật gân như “Northern Rock đang thiếu tiền mặt trầm trọng”, “Northern Rock đang gánh hậu quả do cho vay cầm cố tràn lan”, “Northern Rock bị ảnh hưởng nặng nề sau khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn Mỹ”. [77]
* Nguyên nhân
Nguyên nhân đầu tiên và trực tiếp nhất dẫn đến rủi ro thanh khoản của Northern Rock chính là rủi ro tín dụng mà ngân hàng này phải đối mặt. Sai lầm lớn nhất của ngân hàng Northern Rock là tiếp tục cho các khách hàng vay cầm cố nhiều gấp 5 lần lương của người vay. Khi cho vay thế chấp bằng nhà đất, ngân hàng Northern Rock đã cho vay nhiều gấp 125% giá trị nhà đất của người vay đưa đi cầm cố, bất chấp những lời cảnh báo về sự không ổn định của nền kinh tế cũng như các dự báo về giá bất động sản tụt dốc. Việc cho vay thế chấp sai lầm nói trên đã khiến cho tài sản bong bóng xà phòng của ngân hàng Northern Rock tồn tại trong một thời gian dài và liên tục được thổi căng phồng lên. Chính vì thế, khi bị ảnh hưởng từ việc thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ lâm vào khủng hoảng thì việc thiếu vốn là điều dễ hiểu.
- ii) Bài học về quản trị rủi ro thanh khoản ngân hàng thương mại ở Argentina
Năm 2000, Chính phủ Argentina phải thực hiện các biện pháp cắt giảm chi tiêu và tìm kiếm sự giúp đỡ từ IMF. Tháng 4/2001, các nhà chức trách đã ban hành một loạt biện pháp trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng song song với hạn chế thâm hụt tài khoá (zero deficit plan). Chính phủ Argentina cho rằng đầu tư của khối doanh nghiệp gia tăng nếu tăng thanh khoản của hệ thống NH, giảm thuế đối với mặt hàng vốn, tăng thuế đối với mặt hàng tiêu dùng. Về mặt tài khoá, chính phủ áp thuế lên các giao dịch tài chính để tăng thu nhập cho chính phủ. Tuy nhiên, các biện pháp này không những không làm chững lại sự suy thoái kinh tế mà còn khiến cho Argentina lún sâu hơn vào khủng hoảng. Sự thiếu minh bạch trong việc thực thi các chính sách này cộng với những mâu thuẫn giữa những nhà ban hành chính sách đã làm giảm lòng tin của thị trường. Các nhà đầu tư nghi ngờ mức độ điều chỉnh thâm hụt tài khoá do nhiều địa phương không bị buộc cắt giảm chi tiêu. Việc nới lỏng dự trữ bắt buộc tại các NH với mục đích ban đầu là làm tăng thanh khoản nhưng thực tế lại làm giảm chất lượng tín dụng và giảm khả năng thu hút vốn của các NH [76].
* Nguyên nhân: Thứ nhất, Argentina lúc đó đang ở trong cuộc suy thoái kinh tế. Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đóng các tài khoản tại các ngân hàng Argentina. Thứ hai, những người gửi tiền bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp bị mất niềm tin vào chính phủ, các chính sách của chính phủ và hệ thống ngân hàng. Thứ ba, trong khi người gửi tiền mất niềm tin và muốn rút tiền khỏi ngân hàng, những biến động trong tỉ giá hối đoái giữa đồng đôla Mĩ và đồng Peso càng làm tăng thêm mức độ của các cuộc khủng hoảng thanh khoản. Thứ tư, việc NHTW Argentina can thiệp bằng cách ra các hạn mức rút tiền hàng tháng/tài khoản tiền gửi cá nhân tuy làm giảm lượng tiền rút trên tài khoản nhưng lại làm tăng số lượng người đến rút tiền vì khi NHTW phải khống chế lượng tiền rút ra hàng tháng thì người gửi tiền càng có cơ sở để lo ngại về khả năng thanh khoản của NH và càng muốn rút hơn. [76]
5. Kinh nghiệm quản trị rủi ro hoạt động
Rất nhiều NHTM trên thế giới đã áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro hoạt động ngay sau khi Basel II có hiệu lực. Nhiều NHTM ở Mỹ, Châu Âu, Nhật bản, Australia đã áp dụng cách tiếp cận đo lường hiện đại AMA (Advanced Measurement Approach). Kết quả nghiên cứu do ủy ban Basel thực hiện đối với 121 ngân hàng tại 17 quốc gia cho đến hết năm 2008 đã kết luận rằng vốn rủi ro hoạt động của các NHTM sử dụng AMA thấp hơn các NHTM không sử dụng AMA (10,8% so với 12-18%). Citibank sử dụng phần mềm CLS (continuous linked settlement). Citibank thực hiện quản trị RRHĐ theo các tiêu chuẩn và chính sách rủi ro và kiểm soát trên cơ sở tự đánh giá rủi ro. Hoạt động của các phòng ban, đơn vị kinh doanh được xác định, đánh giá thường xuyên. Từ đó các quyết định điều chỉnh và sửa đổi hoạt động để giảm thiểu RRHĐ được đưa ra. Các hoạt động này được tài liệu hóa và công bố trong ngân hàng. Các chỉ số đo lường rủi ro chính được xác định kỹ lưỡng và cụ thể và đấy là điều kiện để Citibank thực hiện quản trị RRHĐ.
Tại Tây Ban Nha: hơn 50% ngân hàng đã thực hiện đổi mới hoạt động và tổ chức như: thành lập một bộ phận riêng biệt chuyên về rủi ro tác nghiệp, đổi mới hệ thống báo cáo và áp dụng công nghệ hiện đại. Tại Hà Lan: Một số ngân hàng sử dụng tối đa nguồn lực từ bên ngoài để quản trị RRHĐ, như ING Group thuê IBM để quản trị RRHĐ. Khung quản trị RRHĐ cũng được vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, từng ngân hàng. Tại Singapore: Ngân hàng DBS (The Development Bank of Singapore Limited) các rủi ro tác nghiệp được phân tích trên hai giác độ: tần suất xuất hiện và mức độ tác động. Từ đó, DBS xác định cách thức tổ chức và xây dựng các chương trình giảm thiểu các mức rủi ro tác nghiệp như: kiểm soát nội bộ, bảo hiểm quốc tế. Tại DBS, các công cụ và kĩ thuật quản trị rủi ro tác nghiệp được sử dụng như kiểm soát tự đánh giá, quản lý sự kiện, phân tích rủi ro và báo cáo.
Khung quản trị rủi ro: Tổng kết trong 15 năm liên tục cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm 43% tổng số rủi ro tại ANZ. Quan điểm chung của các nhà quản lý NH, quản trị RRTD là yếu tố then chốt để đạt được các mục tiêu của hoạt động cho vay: Tăng trưởng tốt với mức lợi nhuận tương ứng. Vì vậy, ANZ có một khung quản trị rủi ro hợp lý với cách tiếp cận có cơ cấu và nguyên tắc chặt chẽ để đạt được mục tiêu tăng trưởng và lợi nhuận này.
Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB)
Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng của KDB được thể hiện qua năm nội dung cơ bản: (i) Chiến lược và khẩu vị rủi ro; (ii) Mô hình quản lý rủi ro; (iii) Hệ thống quản lý hạn mức rủi ro; (iv) Hệ thống phê duyệt tín dụng; (v) Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng.
Chiến lược, giới hạn và hạ tầng quản lý rủi ro
KDB xác định chiến lược rủi ro hướng tới tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi rủi ro chấp nhận được là tối ưu hóa phân bổ vốn rủi ro. Triết lý của KDB là rủi ro nên được xem xét trên cả hai mặt – cơ hội và thách thức, và không chỉ trên tác động của nó tới các khía cạnh định lượng như vốn kinh tế, mức độ biến động của thu nhập…mà còn trên cả những ảnh hưởng tiềm tàng tới cơ cấu tổ chức, kết quả hoạt động và danh tiếng của ngân hàng.
Mô hình quản lý rủi ro
Phù hợp với mục tiêu hoạt động, KDB xây dựng lộ trình hướng tới mô hình quản lý rủi ro hiện đại với từng giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: của quản lý rủi ro tín dụng là tuân thủ các nguyên tắc quản lý theo Basel II bằng việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần PD – xác suất khách hàng không trả được nợ, LGD – tỷ lệ tổn thất dự kiến (%) trong trường hợp khách hàng không trả được nợ và EAD – số dư nợ rủi ro. Dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EAD, các ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong quản lý rủi ro tín dụng trên nhiều phương diện, mà ứng dụng đầu tiên là tính toán, đo lường rủi ro tín dụng qua EL – tổn thất dự kiến và UL – tổn thất ngoài dự kiến tại cấp độ một
khách hàng cụ thể:
ELi = PD x LGD x EAD
Nguồn: Theo Basel II
Tuy nhiên, việc đo lường, tính toán vốn tối thiểu cần duy trì để bù đắp rủi ro cho các khoản vay không chỉ dừng lại ở những khoản vay đơn lẻ mà còn tính đến rủi ro của cả danh mục tín dụng.
Giai đoạn 2: là quản lý rủi ro danh mục đầu tư bằng cách lượng hoá mức tổn thất dự kiến (ELp) và ngoài dự kiến (ULp) của cả danh mục đầu tư dựa trên việc xác định độ rủi ro tương quan giữa các tài sản/mức vỡ nợ của các tài sản có rủi ro và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.
Giai đoạn 3: Ngân hàng có thể quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức rủi ro tương ứng. Khi các thước đo rủi ro tín dụng là EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng có cơ sở để xác định lãi suất cho vay theo đúng phương châm “rủi ro cao, lợi nhuận cao; rủi ro thấp, lợi nhuận thấp” qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro .
Giai đoạn 4: Cao hơn việc quản lý vốn kinh tế và định giá khoản vay theo rủi ro, ngân hàng hướng tới việc quản lý rủi ro danh mục tín dụng chủ động (ACPM-Active credit portfolio management) thay vì quản lý rủi ro danh mục một cách thụ động bằng việc xác định và chuyển giao rủi ro một cách chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hoá khoản vay (Credit Treasury and Securitisation).
Giai đoạn 5: Mô hình toàn diện nhất mà ngân hàng đạt được là quản lý rủi ro trên cơ sở giá trị (Value-based management – VBM). Khi đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro của khoản tín dụng đơn lẻ cho đến danh mục đầu tư đều được xác định, giúp cho công tác quản lý rủi ro được hiệu quả, chính xác.
Hệ thống quản lý hạn mức rủi ro
Quản lý hạn mức tại KDB bao gồm hai cấp độ chủ yếu là giới hạn tín dụng theo ngành và theo khách hàng.
Đối với ngành hàng, hạn mức được xác định trên cơ sở kết hợp việc đánh giá giữa Dấu hiệu (tầm nhìn dài hạn) và Xếp hạng (tầm nhìn ngắn hạn) để đưa ra định hướng tăng trưởng, duy trì hay rút lui. Mục tiêu của việc thiết lập hạn mức theo từng ngành nhằm phòng tránh rủi ro tập trung vào một ngành hàng cụ thể, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả của các tiêu chí quản lý rủi ro từng ngành.
Ngoài hạn mức rủi ro cho từng khách hàng, KDB cũng thiết lập hạn mức rủi ro cho nhóm khách hàng có liên quan.
Trường hợp hạn mức rủi ro của một khách hàng hay một nhóm khách hàng có liên quan vượt quá giới hạn cho phép, các quyết định cấp tín dụng phải được phê duyệt bởi Chủ tịch HĐQT. Đối với các giao dịch có mức độ rủi ro cao, hệ thống đưa ra các tiêu thức nhận dạng và quản lý hạn mức rủi ro chặt chẽ.
Hệ thống phê duyệt tín dụng
Hệ thống phê duyệt tín dụng của ngân hàng thể hiện ở vai trò, chức năng và thẩm quyền của từng bộ phận, cá nhân trong quá trình phê duyệt tín dụng. Hệ thống được thiết lập theo từng đối tượng khách hàng: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, định chế tài chính. Một cách tổng quát, mô
hình tổ chức của các bộ phận tham gia phê duyệt tín dụng của KDB như sau.
Sơ đồ 1.1: Mô hình phê duyệt tín dụng của KDB.
Nguồn: Theo báo cáo của ngân hàng KDB Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng
Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng của KDB được thiết lập một cách độc lập, áp dụng cho từng khoản tín dụng riêng lẻ, bao gồm cả những khoản tín dụng ngoại bảng, và toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng trên nguyên tắc quản lý hàng ngày và đưa ra cảnh báo sớm mỗi khi hệ thống phát hiện ra rủi ro. Hệ thống cũng cho phép ngân hàng kiểm tra tình trạng của khoản vay từ điều kiện cấp tín dụng, xếp hạng khách hàng, điều kiện giải ngân, dự phòng rủi ro, hạn mức rủi ro và mức độ tuân thủ pháp luật. Hệ thống cũng là công cụ giúp ngân hàng đánh giá lại chiến lược rủi ro cũng như các chính sách trước khi xảy ra rủi ro. Kết quả kiểm tra kiểm soát rủi ro tín dụng sẽ được báo cáo trực tiếp lên Ủy ban quản lý rủi ro.
Các nghiên cứu trước về đo lường chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng
Mục tiêu của phần này là xem xét các nghiên cứu trước đây về đo lường chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng. Có nhiều tác giả đã thực hiện với nhiều phương pháp khác nhau, trên các quốc gia khác nhau vào những giai đoạn khác nhau và đã tìm ra những yếu tố chủ yếu sau đây:
Việc sử dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu như nghiên cứu của Colesca, S. và Liliana, D. (2008) đã đưa ra kết luận rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giúp chính phủ cung cấp các hàng hoá, dịch vụ công hiệu quả hơn, giảm tình trạng tham nhũng, tăng cường công khai minh bạch và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Tác giả Bwalya, K (2009) đã đưa ra các lợi ích từ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước đó là: tiết kiệm chi phí, thời gian, hạn chế tiếp xúc trực tiếp, chất lượng thông tin, an toàn tài chính, giảm áp lực, đáng tin cậy, cách nhìn nhận từ bên ngoài.
Tác giả Anuar, S. và Othman, R. (2010) thực hiện nghiên cứu đề tài “Xác định nhân tố tác động đến việc sử dụng phần mềm nộp thuế qua mạng E-Bayaran” tại Malaysia. Các tác giả đã đưa ra 04 nhóm yếu tố tác động đến việc sử dụng phần mềm nộp thuế E-Bayaran” ở Malaysia đó là: Yếu tố xã hội, Mức độ hữu dụng, Khả năng sử dụng công nghệ tin học và Thông tin về công nghệ mới. Kết quả phân tích cho thấy việc sử dụng E-Bayaran chịu tác động của Mức độ hữu dụng, Yếu tố xã hội và Khả năng sử dụng công nghệ tin học; chưa tìm thấy tác động của Yếu tố thông tin về công nghệ mới.
Theo Aderonke, A. (2010), với nghiên cứu các biến ảnh hưởng tới việc chấp nhận hệ thống E-Banking tại Nigeria gồm 2 nhân tố chính là: Mức độ hữu dụng và Mức độ dễ dàng sử dụng. Nhóm đã đi nghiên cứu sâu hơn đâu là yếu tố tác động tới 2 nhân tố này. Kết quả phân tích cho thấy:
– Đối với nhân tố Mức độ dễ dàng sử dụng thì Khả năng sử dụng máy tính, Thiết kế giao diện không có ảnh hưởng đáng kể tới nhân tố Mức độ dễ dàng sử dụng. Trong khi đó, Kinh nghiệm sử dụng máy tính, Sự quan trọng của ứng dụng, Bảo mật và Yếu tố cá nhân có ảnh huởng mạnh tới Mức độ dễ dàng sử dụng.
– Đối với nhân tố Mức độ hữu dụng của hệ thống: Sự quan trọng của ứng dụng không có ảnh hưởng đáng kể tới Mức độ hữu dụng của hệ thống. Thiết kế giao diện, Mức độ dễ sử dụng có ảnh hưởng đáng kể tới Mức độ hữu dụng của hế thống.
– Mức độ dễ dàng sử dụng ảnh hưởng đáng kể tới Thái độ sử dụng hệ thống. Trong khi đó, nhận thức về Mức độ hữu dụng không có ảnh hưởng đáng kể tới Thái độ sử dụng hệ thống. Thái độ khi sử dụng hệ thống ảnh hưởng trực tiếp tới thói quen sử dụng và chấp nhận hệ thống.
Như vậy, có hai kết luận quan trọng là: Thứ nhất, Mức độ dễ dàng sử dụng bị ảnh hưởng đáng kể bởi các nhân tố sau: Kinh nghiệm sử dụng máy tính, Sự quan trọng của ứng dụng, Bảo mật và Yếu tố cá nhân. Thứ hai, Mức độ dễ dàng sử dụng có ảnh hưởng đáng kể tới việc chấp nhận công nghệ mới thông qua Thái độ sử dụng hệ thống.
Theo nhà nghiên cứu Amin, H. (2008), đã thực hiện khảo sát xác định yếu tố tác động tới việc sử dụng hệ thống thẻ tín dụng qua điện thoại tại Malaysia. Kết quả nghiên cứu cho thấy Mức độ hữu dụng, Mức độ dễ sử dụng, Mức độ tin tưởng và Thông tin về ứng dụng mới là các yếu tố tác động mạnh tới thái độ của người dùng.
Nhóm tác giả Dashti, A. và ctg (2010) kết luận rằng ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý nhà nước chịu ảnh hưởng của Mức độ tin tưởng và Cảm nhận nhận mức độ tin tưởng từ người sử dụng.
Theo nhà nghiên cứu Kamarulzaman, Y. và Azmi, A. (2010), phân tích thực nghiệm cho thấy Mức độ tin tưởng là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới quyết định sử dụng E-Filing tại Malaysia.
Tác giả Lê Thị Kim Tuyết (2008) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng Internet Banking tại Việt Nam. Kết quả phân tích cuối cùng cho thấy tại Việt Nam có ba nhân tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking là Sự hữu ích cảm nhận, Khả năng sử dụng và Sự tin cậy cảm nhận.